Kính thưa quý đồng bào,
Kính thưa quý kiều bào,
Bài viết này phù hợp cho cả các đảng viên cộng sản thuộc Nam Bộ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nếu những ai muốn biết rõ sự thật, vì bài viết này phân tích từ văn kiện lịch sử của đảng cộng sản, không bởi sự bịa đặt hay thù hận.
Bài viết này, Lam Việt dùng chứng cứ khoa học chi tiết về việc chính quyền cộng sản Việt Nam đã bịa đặt về nguồn gốc xuất sứ của cờ đỏ sao vàng. Đồng thời, qua phân tích toàn văn thư báo cáo quốc tế cộng sản 1935 của Hà Huy Tập, Lam Việt dám khẳng định 100% Hà Huy Tập cùng các lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương lúc bấy giờ đã biết Nguyễn Ái Quốc đã chết, và còn đang chờ báo cáo xác nhận. Đảng cộng sản Đông Dương hoàn toàn biết rõ Hồ Quang đóng thế Lin, và yêu cầu đồng chí Lin (Hồ Quang) báo cáo.
Vì sao Lam Việt dám khẳng định điều này. Hãy đọc chi tiết qua phân tích có trích dẫn bên dưới.
Lưu ý: Lam Việt và các anh em phân tích dựa trên các bằng chứng lịch sử khách quan có giá trị từ chính các văn kiện đảng cộng sản Việt Nam, không dựa trên sự hận thù mà thêm bớt chủ quan. Vì lịch sử là lịch sử không thể viết láo.
Trước tiên, trích dẫn những lời lẽ của cộng sản:
“Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), phấp phới tung bay trước trụ sở cách mạng ở Mỹ Tho, Vĩnh Long. Tác giả của lá cờ là Nguyễn Hữu Tiến, nguyên là thầy giáo, sinh ngày 5-3-1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay.
Nǎm 1927, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, được cử làm phó bí thư tỉnh Đảng bộ năm 1930. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị địch đưa ra nhà tù Côn Đảo. Nǎm 1935, Nguyễn Hữu Tiến cùng một số tù chính trị vượt ngục Côn Đảo, trở về đất liền, ông hoạt động cách mạng tại Cần Thơ, sau đó được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, in ấn tài liệu cách mạng.
Đêm 22 rạng 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ mãnh liệt. Ở tỉnh Mỹ Tho, cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt nhất là tại xã Long Hưng (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Từ trong cao trào khởi nghĩa, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện ở tại đây. Viết về sự kiện này, quyển “Mỹ Tho – Gò Công trong cuộc khởi nghĩa Nam kì (1940)” do Ban Tuyên giáo Tiền Giang xuất bản năm 2001 cho biết: “Ngay trong ngày 23-11-1940, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và tổ chức cuộc mít tinh có hơn 3.000 người tham dự tại đình Long Hưng để ra mắt nhân dân. Lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trên ngọn cây bàng, trước đình Long Hưng”. Từ Long Hưng – Mỹ Tho, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay khắp Nam kỳ trong những ngày cuối tháng 11-1940 lịch sử.”
——-
Người phê phán Nguyễn Ái Quốc gay gắt nhất là Trần Phú. Tại Hội nghị Trung ương tháng 10/1930, Trần Phú phê phán những sai lầm về chính trị và tổ chức của Hội nghị hợp nhất là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, về “chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ”, về “nói phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng”, cùng một số sai lầm khác, sau đó ra nghị quyết “thủ tiêu Chính cương, Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng” (Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1998, t.2, tr.110-112). Sau Hội nghị Trung ương 10/1930, trong thư gửi Quốc tế cộng sản ngày 17/4/1931, ông còn phê phán nội dung Hội nghị hợp nhất “mang nặng dấu ấn các tổ chức cách mạng cũ, các vấn đề cơ bản đều mâu thuẫn với đường lối Quốc tế cộng sản (do thiếu một chính sách giai cấp)… mang dấu ấn nhất định của thời kỳ Quốc – Cộng hợp tác 1925-1927” (Tài liệu lưu trữ tại Phòng Quốc tế cộng sản, nay là Trung tâm bảo tồn và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga, viết tắt là R.C., ký hiệu 495.154.462).
Trần Phú được cử làm Tổng bí thư, Nguyễn Ái Quốc sau đó bị mất vai trò lãnh tụ tối cao, chỉ còn là cái “thùng thư” trung chuyển giữa Ban chấp hành Trung ương trong nước với Quốc tế cộng sản và ngược lại. Nhiều bài báo Nguyễn Ái Quốc gửi về Moskva thời gian này đã không được đăng trên Inprecor, như chính Nguyễn Ái Quốc thắc mắc trong thư gửi Quốc tế cộng sản ngày 2/1/1931.
Sau khủng bố trắng 1930-1931, Ban chấp hành Trung ương trong nước hầu hết bị bắt và chết, Nguyễn Ái Quốc và nhiều cán bộ của Chi nhánh Ban Viễn Đông ở Thượng Hải cũng bị bắt, nhân vật nổi lên lúc này là Hà Huy Tập. Tuy chưa về nước, nhưng trong những tài liệu viết gửi Quốc tế cộng sản, để tỏ rõ sự kiên định mácxít của mình, Hà Huy Tập đã không bỏ lỡ cơ hội nào có thể để phê phán những quan điểm “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, về sắp xếp lực lượng cách mạng và về sách lược liên minh, hợp tác trong cách mạng v.v…
Hà Huy Tập từng viết: Đường Kách mệnh là cuốn sách cực kỳ sơ đẳng, đã định nghĩa cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng chống đế quốc “nhưng họ chưa bao giờ nói rõ rằng giai cấp nào phải là người lãnh đạo cuộc cách mạng này (giai cấp tư sản hay giai cấp vô sản?)… Người ta cho rằng trước hết cần phải tiến hành cách mạng dân tộc, trước khi làm cách mạng thế giới, nhưng hoàn toàn quên rằng cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận không tách rời của cách mạng thế giới… Họ vẫn có một lý luận chính thức, theo đó cần phải liên kết tất cả mọi giai cấp trong thời kỳ tranh đấu chống chủ nghĩa đế quốc. Không hơn không kém, lý luận đó có nghĩa là sự hợp tác giai cấp… không xác định động lực của cách mạng Đông Dương và không hiểu đúng độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản…” (Văn kiện Đảng toàn tập, t.4, tr.367). Hà Huy Tập mỉa mai: đó là thứ lý luận “ngu ngốc”, “không thể nhịn cười được”.
Ngay cả khi được tin Nguyễn Ái Quốc đã lâm bệnh, qua đời ở Hồng Kông (Tờ L’Humanité 9-8-1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết trong trạm xá nhà tù Hồng Kông vì bệnh lao phổi), trong bài viết như để truy điệu, Hà Huy Tập cũng không quên nhắc đến những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng… Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà Quốc tế cộng sản đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng. Ngoài ra, ông còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”
Nên, không thể nào tư tưởng và đường lối đảng cộng sản Trung Quốc được Hà Huy Tập thi hành khi tiến hành khởi nghĩa Nam Kỳ. Chính vì lý do đó, Hà Huy Tập và các lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương lúc bấy giờ chỉ sử dụng duy nhất cờ quốc tế cộng sản búa – liềm làm cờ, không hề có sao vàng, sao trắng gì cả.
Những bức hình vẽ khởi nghĩa Nam Bộ đã chứng minh điều đó:
Cờ đỏ sao Vàng bầu được thiếu tá Hồ Quang đem từ Hồng Quân Trung Quốc về Pác Bó năm 1941, lấy tên tắt là Việt Minh (đồng minh với Hồng Quân Trung Quốc). Điều này được chính Võ Nguyên Giáp khẳng định.
Nguyễn Hữu Tiến, người đã vẽ ra cờ đỏ sao Vàng cho khởi nghĩa Nam Bộ là một sự bịa đặt của đảng cộng sản Việt Nam nhằm tuyên truyền và bảo vệ cho hình ảnh cờ đỏ sao Vàng có trước khi Hồ Quang về Pác Bó, khi bị đồng bào và kiều bào chất vấn nguồn gốc của nó.
Do Hà Huy Tập và các lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương lúc bấy giờ không đánh giá cao Nguyễn Ái Quốc, phê phán Lin. Nên cờ đỏ sao Vàng càng không thể xuất hiện nhiều vào giai đoạn này (1935 – tháng 9 1945).
Cho đến khi đã thủ tiêu Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn, Võ Văn Tần,..v.v….. Nam Bộ vẫn chưa xuất hiện cờ đỏ sao Vàng, mà phải nói chính xác hơn lúc bấy giờ ở Nam Bộ vẫn chưa chấp nhận rộng rãi cờ đỏ sao Vàng.
Mà cờ đỏ sao Vàng chỉ được chấp nhận rộng rãi tại Nam Bộ sau khi Hồ Quang đổi tên là Hồ Chí Minh và lập ra VNDCCH ngày 2-9-1945.
Vì sao có sự chống đối từ Nam Bộ đối với cờ đỏ sao Vàng gốc Trung Quốc.???
Vì tư tưởng và đường lối của Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ nói trên đối với Nguyễn Ái Quốc.
Báo cáo của Hà Huy Tập phân biệt rất rõ giữa đồng chí Nguyễn Ái Quốc – đồng chí Quốc và đồng chí Lin.!!! Nhưng từ sau 1945, đảng cộng sản mà cụ thể hơn là do Hồ Quang trong tên hồ chí minh đã cố tình đánh đồng 2 người này làm một và nhồi sọ tất cả đảng viên đảng cộng sản phải tin vào điều đó.
Ngay trong toàn văn báo cáo của Hà Huy Tập năm 1935 đã phân biệt vạch rất rõ 2 cái tên đồng chí Nguyễn Ái Quốc – đồng chí Quốc và đồng chí Lin. Ngay cả bí danh Lítvinốp của Lê Hồng Phong trong báo cáo cũng rất chú ý đến việc không để lộ thân phận của Lê Hồng Phong. Nhưng cớ sao Hà Huy Tập lại viết rõ ra 2 cái tên:
Nguyễn Ái Quốc – đồng chí Quốc và đồng chí Lin.
Đọc những đoạn trích này trong báo cáo của Hà Huy Tập, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Thậm chí, Hà Huy Tập đã rất cẩn thận đánh dấu số 13. Nguyễn Ái Quốc (dự bị).
Lam Việt sẽ phân tích rõ chi tiết này sau khi quý vị đọc hết đoạn trích dưới đây:
Trích:
“THƯ GỬI CÁC ĐỒNG CHÍ BAN CHẤP ỦY QUỐC TẾ CỘNG SẢN
Ngày 31 tháng 3 năm 1935
…….
Cấu tạo Ban Trung ương. Đại hội đã bầu một Ban Trung ương gồm 13 người:
1. Lítvinốp2, công nhân cũng là nông dân và trí thức.
2. Đình Thanh3, công nhân, lãnh đạo tổ chức đảng của Bắc Kỳ.
3. Semi4 công nhân, uỷ viên của Uỷ ban liên địa phương Nam Kỳ.
4. Công nhân (thợ mộc), xứ uỷ viên Nam Kỳ.
5. Svan5, trí thức, thư ký Uỷ ban liên địa phương miền Nam Đông Dương.
6. Nông dân nghèo Thổ (dân tộc thiểu số), thư ký Xứ uỷ Bắc Kỳ (dự khuyết).
7.— công nhân thợ mộc Thổ, xứ uỷ viên Bắc Kỳ.
8.— người nấu bếp, thư ký Xứ uỷ Lào.
9. Thợ máy, người Lào, xứ uỷ viên Lào (dự khuyết).
10. Thợ nề, thư ký Tỉnh uỷ Nghệ An.
11. Trí thức, lãnh đạo tổ chức đảng ở bắc Trung Kỳ (dự khuyết).
12. Một thành viên khác của Xứ uỷ Trung Kỳ (không rõ nghề nghiệp) do Ban Trung ương chỉ định.
13. Nguyễn Ái Quốc (dự bị).
Như vậy, Ban Trung ương gồm có 8 công nhân, 1 nông dân nghèo, 3 trí thức và 1 người nữa chưa rõ nghề nghiệp. Ban Thường vụ gồm 5 người (4 công nhân), trong đó có Lítvinốp và Đình Thanh. Đại hội đã quyết định, từ nay công nhân cần chiếm đa số trong mọi cơ quan lãnh đạo của Đảng.
……..
Những vấn đề khác:
……
8. Đồng chí Lin được Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Trung ương của Đảng chỉ định là đại diện của Đảng ở Quốc tế Cộng sản.
9. Đại hội đã chuẩn y việc chỉ định các đồng chí Lítvinốp, Bà Vai19 và Cao Bằng20 là đại biểu của Đảng đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản chúng tôi sẽ cử thêm ba đại biểu khác21.
10. Ở Xiêm và Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc tranh đấu công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết. Hai Đảng Cộng sản Xiêm và Đông Dương đã viết một quyển sách chống những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua.
BAN CHỈ HUY Ở NGOÀI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
– Tài liệu tiếng Pháp, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
– Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.190-204.
———
2. Lítvinốp: Lê Hồng Phong (B.T)
19. Bà Vai: Nguyễn Thị Minh Khai
20. Cao Bằng: Hoàng Văn Nọn, Tú Hưu, bí danh tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản là Văn Tân, học Trường đại học Phương Đông (B.T)”
——————————
Đến đây quý đồng bào, quý kiều bào và các bạn trẻ đã có phần nào phân biệt được việc Hà Huy Tập đã viết rõ 2 cái tên đồng chí Nguyễn Ái Quốc – đồng chí Quốc và đồng chí Lin. Vậy tại sao lại có cớ sự này.???
Vì Hà Huy Tập đã biết Nguyễn Ái Quốc đã chết và chờ xác minh, nên cử Nguyễn Thị Minh Khai sang quốc tế cộng sản tại Moskva để xác minh.
Ngay cả khi được tin Nguyễn Ái Quốc đã lâm bệnh, qua đời ở Hồng Kông (Tờ L’Humanité 9-8-1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết trong trạm xá nhà tù Hồng Kông vì bệnh lao phổi), trong bài viết như để truy điệu, Hà Huy Tập cũng không quên nhắc đến những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào cách mạng… Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà Quốc tế cộng sản đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng. Ngoài ra, ông còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”
Như những giải mã về đảng cộng sản trước đây Lam Việt đã từng phân tích cho thấy khi Nguyễn Thị Minh Khai sang dự quốc tế cộng sản lại Moskva năm 1935, Hà Huy Tập đã viết thư giới thiệu đến quốc tế cộng sản đó là vợ của Lin (bí danh Lin lúc này vẫn là của Nguyễn Ái Quốc), và cũng chính Nguyễn Thị Minh Khai đã khai báo như vậy khi tham gia đại hội.
Tuy nhiên, khi gặp Lin thì Nguyễn Thị Minh Khai đã nhận ra ngay Hồ Quang (Hồ Tập Chương) vì đã từng làm việc chung với Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng 1930.
Chính vì Hồ Quang đã bị Nguyễn Thị Minh Khai nhận dạng, nên buộc Hồ Quang phải khai thật với Nguyễn Thị Minh Khai rằng, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh ho lao năm 1932 tại Hong Kong. Nên Hồ Quang được đảng cộng sản Trung Quốc (cụ thể hơn là tổ chức Hồng Quân Trung Quốc bắt Hồ Quang phải làm việc này) cải trang đóng thế Nguyễn Ái Quốc, và sử dụng bí danh Lin để đến dự Quốc Tế cộng sản 1935 tại Liên Xô.
Hồ Quang mang bí danh Lin từ đây thay cho Nguyễn Ái Quốc.
Do biết tin Nguyễn Ái Quốc đã chết, nên Nguyễn Thị Minh Khai đã xin phép Quốc Tế cộng sản chấp thuận đăng ký kết hôn với Lê Hồng Phong ngay tại Moskva, nhưng phía đảng cộng sản Việt Nam hiện tại lại bịa đặt ra câu chuyện đám cưới của Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong tại Thượng Hải năm 1934.
(Ghi chú: Thời gian này Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Hoàng Văn Nọn không có hành trình nào đến Thượng Hải, vì họ tập trung ở Hong Kong để lên kế hoạch sang Moskva dự đại hội quốc tế cộng sản 1935.
Chính đảng cộng sản Việt Nam viết láo về các lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương mà không bởi thế lực nào khác ngoài đảng.!!!)
Do, Hồ Quang đã xác nhận đóng vai Lin, nên Lê Hồng Phong lúc đó chấp nhận cho Hồ Quang trong vai đồng chí Lin đại diện cho đảng cộng sản Đông Dương tại Quốc Tế cộng sản, nhưng phải báo cáo về cái chết của Nguyễn Ái Quốc và thực tế còn có Nguyễn Thị Minh Khai ở Moskva.
Như vậy, trong thư báo cáo của Hà Huy Tập chúng ta thấy rất rõ quan điểm của Hà Huy Tập và Lê Hồng Phong là cứu vớt cho Hồ Quang, và chấp nhận cho Hồ Quang trong vai trò là đồng chí Lin đại diện tại Moskva. Việc Nguyễn Ái Quốc chết thật hay chưa cần xác minh thông qua việc chờ Nguyễn Thị Minh Khai xác nhận với đồng chí Lin viết báo cáo, nên Hà Huy Tập đã cẩn thận đánh số 13. Nguyễn Ái Quốc (dự bị).
Chính việc nhân nhượng này của Hà Huy Tập và Lê Hồng Phong, nên cuối báo báo tại mục (10.) Hà Huy Tập nhấn mạnh:
“Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết. Hai Đảng Cộng sản Xiêm và Đông Dương đã viết một quyển sách chống những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua.”
Tại sao Hà Huy Tập phải nhắc và phân biệt rõ ràng giữa đồng chí Nguyễn Ái Quốc và đồng chí Lin.???
Vì những học thuyết cơ hội của đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đã có từ lâu nên bị đảng cộng sản Xiêm và Đông Dương viết sách chống khuynh hướng đó.
Nhưng riêng đồng chí Lin, Hà Huy Tập viết: Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua. Khuyết điểm đó là việc Hồ Quang đã đóng thế Nguyễn Ái Quốc trong vai Lin để đến Moskva.
Điều này, là một lời khẳng định của Hà Huy Tập yêu cầu đồng chí Lin (Hồ Quang đóng thế) phải viết báo cáo chi tiết về cái chết của Nguyễn Ái Quốc qua sự xác minh của Nguyễn Thị Minh Khai.
Vì chưa có báo cáo chi tiết từ đồng chí Lin, nên Hà Huy Tập đã ghi chú (dự bị) trong thư báo cáo Quốc Tế cộng sản. Tức là đang chờ Nguyễn Thị Minh Khai xác minh.
Chính vì một phút chốc nhân từ với Hồ Quang chấp nhận cho đóng thế vai Lin. Mà sau này, năm 1938 khi Hồ Quang về lại Hồng Quân Trung Quốc đã báo cáo sự việc. Nên Hồng Quân Trung Quốc đã mật thám cho chính quyền Pháp truy sát tất cả lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương. Chỉ vì Hà Huy Tập yêu cầu đồng chí Lin (Hồ Quang) viết báo cáo tự phê bình những khuyết điểm đã qua. Khuyết điểm đó là việc Hồ Quang đã đóng thế Nguyễn Ái Quốc trong vai Lin để đến Moskva.
Thay gì viết báo cáo, thì Hồ Quang trong vai trò thiếu tá Bát Lộ Quân đã giết sạch đảng cộng sản Đông Dương để lập nên Việt Nam độc lập đồng minh hội, sử dụng cờ đảng cộng sản Trung Quốc làm cờ.
Chính vì lẽ đó, cho đến khi Hồ Quang trong tên mới là hồ chí minh chưa tuyên bố thành lập VNDCCH, thì tại Nam Bộ vẫn không sử dụng cờ đảng Trung Quốc làm đại diện, mà vẫn trung thành với cờ Quốc Tế cộng sản búa liềm.
Hồ Chí Minh giải nghĩa:
Hồ: Hồ Quang, thiếu tá Bát Lộ Quân sinh năm 1901 tại Đài Loan, làm việc cho Hồng Quân Trung Quốc, là đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc.
Chí: Ám chỉ một loại vải dùng may cờ
Minh: Nghĩa chính là Đồng Minh có trong Việt Nam độc lập đồng minh hội – Việt Minh.
Hồ Chí Minh nghĩa là cờ đồng minh do thiếu tá Bát Lộ Quân – Hồ Quang lãnh đạo.
Trước sự đối kháng đó tại Nam Bộ, Hồ Quang đã chủ trương cho sử dụng cả 2 cờ là cờ đảng Trung Quốc và cờ búa liềm để xoa dịu sự chống đối.
Chính vì lẽ đó, khi Lê Duẩn lên tổng bí thư và mãi về sau biết được toàn bộ sự thật từ miệng Mao Trạch Đông, nên Lê Duẩn đã cô lập Hồ Chí Minh cho đến khi chết năm 1969, gây nên cuộc chiến nội bộ mang tên VỤ ÁN XÉT LẠI CHỐNG ĐẢNG gây thù với Võ Nguyên Giáp, và thay đổi tên CHXHCN Việt Nam năm 1975 mà không theo Mao Trạch Đông. Nuôi hận, Võ Nguyên Giáp cấu kết với Đặng Tiểu Bình dạy cho Lê Duẩn bài học ngay ngày cưới con trai Lê Duẩn ngày 17 tháng 2 năm 1979. Thất bại 2 lần, Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn đày đi cầm quần sinh đẻ có kế hoạch.
Tàn dư của cuộc chiến quyền lực nội bộ cộng sản vẫn còn âm ỉ cho đến ngày nay, chính là cuộc chiến giữa hai phe miền Nam theo Búa Liềm quốc tế cộng sản của Hà Huy Tập, và miền Bắc theo cờ đỏ sao Vàng của đảng cộng sản Trung Quốc.
Và sự cấu kết trả thù của tàn dư Võ Nguyên Giáp bỏ chạy ra Hải Ngoại trong vỏ bọc là cộng sản phản tỉnh, hay một cái tên khác là Cộng Quân Ly Khai.
Ngày nay, 2 nhóm phe Võ Nguyên Giáp cả trong và ngoài nước đều đã kết nối với nhau đánh phá phe còn lại để chiếm quyền lực cho nội bộ. Cụ thể đó là Trương Tấn Sang là minh chủ nối vị Võ Nguyên Giáp dưới sự phục vụ của Nguyễn Quang A và Chu Hảo cùng bè nhóm xã hội dân sự và cộng quân ly khai tại Hải Ngoại trong vỏ bọc “đấu tranh dân chủ” bịp bợm. Vì bọn chúng chỉ là đang đấu tranh cho dân chủ tập trung theo đường lối cộng sản, tranh giành độc tài nội bộ mà thôi, không hề thi hành dân chủ – Democracy kiểu Mỹ.
Tổ chức xã hội dân sự do Nguyễn Quang A cầm đầu đã từng tự phong là trí thức, nhằm mục đích chễm chệ tự nhận là lãnh đạo nhân dân để cướp quyền lập hiến của dân vào năm 2013 và tự ý dùng cờ đảng trung Quốc, tự ý đổi tên nước về VNDCCH theo di sản Hồ Quang để lại, một tàn dư chi bộ đảng cộng sản Trung Quốc.
Nhân đó, Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng tuyên bố: “Bí thư đảng cộng sản Việt Nam chỉ do người miền Bắc kế nhiệm”. Điều này đồng nghĩa, vây cánh cộng sản Bắc Kỳ rất sợ vây cánh cộng sản Miền Nam tạo phản tách khỏi đảng cộng sản Trung Quốc. Nên, Nguyễn Phú Trọng luôn thao thao bất tuyệt về suy đồi đạo đức.
Đạo đức gì ở hồ chí minh (Hồ Quang) khi triệt hạ toàn bộ lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương để lên nắm độc quyền lấy tên Việt Minh (chi bộ đảng cộng sản Trung Quốc).??? Mưu cầu cướp nước là một đạo đức đáng phải tuân thủ ư.???
.
.
————————-
Lam Việt – Người dân tộc Đại Việt
.
.
Trích nguyên văn thư báo cáo của Hà Huy Tập tháng 3 năm 1935:
“THƯ GỬI CÁC ĐỒNG CHÍ BAN CHẤP ỦY QUỐC TẾ CỘNG SẢN
Ngày 31 tháng 3 năm 1935
Các đồng chí thân mến,
Hồi tháng 12 vừa qua Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương đã gửi một báo cáo dài, chi tiết về tình hình các tổ chức quần chúng trong Đảng, về phong trào cách mạng năm 1933-1934. Thư này của chúng tôi chỉ nói về hoạt động của Đảng trong bốn tháng qua.
Về chuẩn bị Đại hội của Đảng. Ban chúng tôi đã ra những chỉ thị rất rõ ràng gửi tất cả các tổ chức đảng để chuẩn bị Đại hội một cách nghiêm túc, nhằm mục đích:
a) Mở rộng và củng cố hàng ngũ của Đảng và các tổ chức quần chúng;
b) Mở rộng phong trào tự phê bình bônsơvích trong hàng ngũ đảng, phổ biến các chương trình hành động của Đảng, của thanh niên và công hội đỏ, tuyên truyền phổ biến chủ nghĩa Mác – Lênin;
c) Mở rộng phong trào cách mạng;
d) Tranh đấu chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
Những nhiệm vụ này đã được thực hiện trong thời gian sáu tháng, nhưng đều không có kết quả mỹ mãn. Tại Nam Kỳ, công việc chuẩn bị cho Đại hội chỉ giới hạn trong việc thống nhất các tổ chức của Đảng ở Cao Miên, ở Nam Kỳ và ở nam Trung Kỳ, trong việc bầu ra một uỷ ban liên xứ trong khi chờ thành lập Ban Trung ương theo Điều lệ và việc chỉ định các đại biểu dự Đại hội Đảng. Tại bắc Trung Kỳ việc chuẩn bị Đại hội cũng chỉ giới hạn trong những công việc thuần tuý về tổ chức nội bộ. Ở Lào, công việc này khá tốt, do nói chung các đồng chí ở Lào đã thực hiện các công việc do Ban Chỉ huy ở ngoài đề ra, trừ vấn đề tự phê bình bônsơvích. Cần biểu dương tổ chức ở Lào, vì trong sáu tháng, khủng bố trắng đã làm đảo lộn gần toàn bộ tổ chức xứ uỷ ba lần, nhưng xứ uỷ vẫn được khôi phục. Tại Bắc Kỳ đã tổ chức những cuộc mít tinh và biểu tình để ủng hộ Đại hội, song khủng bố trắng đã làm suy yếu hoạt động chuẩn bị kể từ tháng giêng.
Những nghị quyết của Hội nghị Đảng tháng 6-1934, các thư, thông cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi các xứ uỷ nói về các nhiệm vụ của Đảng được nghiên cứu ở các chi bộ (Bắc Kỳ, Lào); tại Nam Kỳ chỉ tiến hành nghiên cứu trong các chi bộ thư ngỏ của Ban Chỉ huy ở ngoài, chứ chưa nghiên cứu thư của Đảng Cộng sản Tàu và Chương trình hành động; các chương trình hành động khác của Thanh niên Cộng sản đoàn, của công hội đỏ đều còn chưa gửi tới. Tại Bắc Kỳ và Lào, các đồng chí đã nhận được và nghiên cứu các Chương trình hành động của Đảng và của Thanh niên Cộng sản đoàn. Mặc dầu lá thư ngỏ của Đảng Tàu và Chương trình hành động của các công hội đỏ cũng có gửi cho các tổ chức ở Lào, ở Trung Kỳ và ở Bắc Kỳ, nhưng các văn kiện ấy đều bị bưu cục giữ lại và được nhận quá chậm, không thể nghiên cứu tại các chi bộ trước Đại hội. Vậy là các nghị quyết, các bức thư và các chương trình đều được dùng làm tài liệu cơ bản cho các cuộc thảo luận trong Đảng trước Đại hội. Tờ Tạp chí Bônsơvích, cơ quan lý luận của Ban chúng tôi, đã mở một cuộc vận động (nhưng rất yếu) chuẩn bị cho Đại hội; tạp chí đã mở một cuộc phê bình về hoạt động của toàn Đảng và chỉ ra các nhiệm vụ cần kíp.
Về Đại hội. Chúng tôi đã báo cáo với các đồng chí bằng thư và điện ngày 27-12-19341 rằng thời gian họp Đại hội được ấn định ngày 18-3. Nhưng lúc ấy, các đại biểu dự Đại hội chưa tới được, vì thế chúng tôi lùi ngày họp Đại hội tới 27-3. Chúng tôi đã không thấy đại diện của các đồng chí tới, cả đại diện của các Đảng Pháp và Đảng Tàu cũng vậy. Tại Đại hội có mặt: 2 đại biểu của Ban Chỉ huy ở ngoài, 3 đến từ Cao Miên, Nam Kỳ và nam Trung Kỳ, 1 của Lào, 2 của bắc Trung Kỳ, 2 của Bắc Kỳ (cuối Đại hội mới tới), 3 đến từ Xiêm (1 Xiêm, 1 Tàu và 1 Việt Nam). Tất cả gồm 13 người.
Đại hội bế mạc ngày 31-3. Trước đó, chúng tôi dự kiến kéo dài Đại hội trong 10 ngày, vì vậy chúng tôi đã chuẩn bị ba báo cáo: Báo cáo chính trị sáu giờ, Báo cáo về tổ chức ba giờ, Báo cáo về vấn đề công hội ba giờ, nhưng vì sự phản bội của tên Nguyễn Văn Trâm tức Trọng đã lấy cắp 1.500 đôla Hồng Kông và chạy trốn, tên này đã đi khai báo những điều quan trọng với cảnh sát Pháp. Chúng tôi ở vào tình thế rất gay go, nên đã phải rút ngắn thời gian Đại hội xuống còn bốn ngày rưỡi. Chỉ có một bản Báo cáo chính trị (nói miệng) trong ba giờ và một Báo cáo về tổ chức trong 40 phút. Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện sau đây, do Ban Chỉ huy chúng tôi thảo và thông qua:
1. Luận cương chánh trị về tình hình quốc tế, tình hình trong nước, tình hình Đảng, các tổ chức quần chúng và về những nhiệm vụ trước mắt của Đảng.
2. Nghị quyết về công nhân vận động.
3. Về nông dân vận động.
4. Về vận động binh lính.
5. Về phụ nữ vận động.
6. Về công tác trong các dân tộc thiểu số.
7. Về thanh niên vận động.
8. Về công tác phản đế liên minh.
9. Về đội tự vệ.
10. Về các bản chương trình hành động của Đoàn Thanh niên Cộng sản, của công hội đỏ ở Đông Dương và của nông hội.
11. Về cứu tế đỏ.
12. Về công tác đã qua của Ban Chỉ huy ở ngoài.
13. Về nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài và các quan hệ của Ban với Ban Trung ương Đảng.
14. Điều lệ của Đảng Cộng sản.
15. Điều lệ của Thanh niên Cộng sản đoàn.
16. Điều lệ của Phản đế liên minh.
17. Điều lệ của Cứu tế đỏ quốc tế.
18. Điều lệ của các công hội đỏ.
19. Điều lệ của các nông hội làng.
20. Thư gửi Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản, gửi các Đảng Cộng sản Pháp, Liên Xô, Ấn Độ, Xiêm, Tuyên ngôn của Đại hội gửi những người lao động trong nước.
Cấu tạo Ban Trung ương. Đại hội đã bầu một Ban Trung ương gồm 13 người:
1. Lítvinốp2, công nhân cũng là nông dân và trí thức.
2. Đình Thanh3, công nhân, lãnh đạo tổ chức đảng của Bắc Kỳ.
3. Semi4 công nhân, uỷ viên của Uỷ ban liên địa phương Nam Kỳ.
4. Công nhân (thợ mộc), xứ uỷ viên Nam Kỳ.
5. Svan5, trí thức, thư ký Uỷ ban liên địa phương miền Nam Đông Dương.
6. Nông dân nghèo Thổ (dân tộc thiểu số), thư ký Xứ uỷ Bắc Kỳ (dự khuyết).
7.— công nhân thợ mộc Thổ, xứ uỷ viên Bắc Kỳ.
8.— người nấu bếp, thư ký Xứ uỷ Lào.
9. Thợ máy, người Lào, xứ uỷ viên Lào (dự khuyết).
10. Thợ nề, thư ký Tỉnh uỷ Nghệ An.
11. Trí thức, lãnh đạo tổ chức đảng ở bắc Trung Kỳ (dự khuyết).
12. Một thành viên khác của Xứ uỷ Trung Kỳ (không rõ nghề nghiệp) do Ban Trung ương chỉ định.
13. Nguyễn Ái Quốc (dự bị).
Như vậy, Ban Trung ương gồm có 8 công nhân, 1 nông dân nghèo, 3 trí thức và 1 người nữa chưa rõ nghề nghiệp. Ban Thường vụ gồm 5 người (4 công nhân), trong đó có Lítvinốp và Đình Thanh. Đại hội đã quyết định, từ nay công nhân cần chiếm đa số trong mọi cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Tình hình Đảng và các tổ chức quần chúng. Những nghị quyết khác chúng tôi vừa đưa trình Đại hội đã phân tích một cách rõ ràng những kết quả và những sai lầm của Đảng và các tổ chức quần chúng. Chúng tôi tin chắc rằng các đồng chí sẽ đọc tài liệu chăm chú, vì vậy trong thư này, chúng tôi không muốn làm cả việc trình bày những đặc điểm về mọi ngành hoạt động của Đảng chúng tôi, cả việc nêu ra những nhiệm vụ trước mắt.
Sau đây là biểu thống kê số đảng viên và các tổ chức quần chúng tính đến ngày 15-2-1935.
Tổ chức
Địa điểm |
Đảng |
TN
CS |
Công hội |
Cứu tế đỏ |
LM phản đế |
Nông hội |
Hội phụ nữ |
Binh lính |
Học sinh |
Thể thao |
Các tổ chức QC khác |
Hà Nội |
30 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
100 |
Hòn Gai |
03 |
|
|
|
02 |
|
|
|
|
|
|
Lạng Sơn |
30 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hà Giang |
04 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cao Bằng |
201 |
|
|
|
|
|
30 |
|
|
16 |
|
Thái Nguyên |
03 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bắc Trung Kỳ |
47 |
|
|
|
|
500 |
|
|
|
|
|
Nghệ An |
96 |
|
|
|
|
175 |
|
|
|
|
|
Đông Nam Kỳ |
80 |
15 |
60 |
70 |
|
2.000 |
|
|
20 |
|
|
Tây Nam Kỳ |
17 |
|
|
|
|
500 |
|
|
|
|
|
Cao Miên |
09 |
|
4 |
|
|
50 |
|
|
|
|
|
Lào |
32 |
25 |
55 |
|
69 |
|
05 |
09 |
20 |
18 |
|
Sự biến động về số đảng viên và của các tổ chức quần chúng nhìn chung là do bị đàn áp. Cũng cần nói thêm là ở nhiều nơi, Đảng chúng tôi chưa bắt lại liên lạc được với các tổ chức cũ của Đảng.
Cơ cấu xã hội của Đảng rất không tốt. Đảng viên phần lớn là nông dân; số đảng viên cộng sản là trí thức giảm đáng kể do sự khủng bố; ở Lào, cơ cấu xã hội là tốt: trong số 32 đảng viên, có 28 công nhân, xứ uỷ gồm 4 công nhân và 1 tiểu thương; trong cả xứ, thợ thuyền chỉ là số ít trong các cơ quan lãnh đạo. Xứ uỷ Lào có 1 công nhân người Lào, ở phía bắc của Bắc Kỳ, người Thổ và người Nùng (các dân tộc thiểu số) là số đông trong các uỷ ban lãnh đạo. Ở Lào, có Thị uỷ Viêng Chăn (5 chi bộ), hai tỉnh uỷ ở Savanakhét và ở Thàkhẹt, và các chi bộ trong các hầm mỏ Boneng, Thàkhẹt, Phonchiu.
Ở đông Nam Kỳ có 10 tỉnh, nhưng chỉ bốn nơi có các tỉnh uỷ (Gia Định, Bến Tre, Chợ Lớn và Đức Hoà), ở Tân An và Tây Ninh chỉ có các chi bộ. Trong các tỉnh khác, có những người cộng sản hoạt động riêng lẻ, và do xa xôi nên không thể lập các chi bộ. Ở tây Nam Kỳ, có một uỷ ban lãnh đạo ba chi bộ của ba tỉnh Châu Đốc, Sa Đéc và Long Xuyên; ở Trà Vinh vài tháng trước đây có 12 đảng viên, nhưng nay không còn một người nào. Ở nam Trung Kỳ, có hai tỉnh uỷ ở Quảng Ngãi và Faifo6; ở các tỉnh khác, chỉ có những chi bộ riêng lẻ. Ở bắc Trung Kỳ, các tỉnh uỷ của Hà Tĩnh và Nghệ An đã bị bắt ngày 12-9-1934, chỉ có thể tổ chức lại Tỉnh uỷ Nghệ An. Các đại biểu của bắc Trung Kỳ tuyên bố rằng họ có liên lạc với các tỉnh khác Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình, song tổ chức đảng ở Nghệ An không có tiền để giúp đỡ họ trả tiền đi lại và ăn ở, để mở rộng hoạt động của Đảng tại các tỉnh ấy. Tại bắc Trung Kỳ có nhiều chi bộ, nhiều huyện uỷ cộng sản riêng lẻ còn chưa bắt liên lạc được với Đảng; ở Nghệ An, có những đồng chí đã xuất bản tờ báo Cộng sản đã đến số 14, song tổ chức của chúng tôi ở địa phương vẫn chưa thể tìm liên lạc được với những người biên tập tờ báo này. Ở Bắc Kỳ có Thành uỷ Hà Nội, các Tỉnh uỷ Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, những chi bộ ở Hải Phòng, Hòn Gai, Hà Giang.
Về công tác tuyên truyền cổ động. Trong báo cáo tháng 12-1934 chúng tôi đã nói về những tờ báo và sách cộng sản và những chiến dịch đỏ ở trong nước. Chúng tôi mới được tin ở Lào có sáu tờ báo cộng sản. Tại Bắc Kỳ vừa ra đời tờ Búa liềm. Những tài liệu cộng sản cơ bản tại Nam Kỳ và nam Trung Kỳ đều do Uỷ ban liên địa phương nam Đông Dương cung cấp, các tài liệu dùng ở Lào, ở bắc Trung Kỳ và ở Bắc Kỳ thì do Ban Chỉ huy ở ngoài cung cấp. Tạp chí Bônsơvích có nhiều lỗi cả về nội dung và hình thức. Chúng tôi đã phạm một sai lầm chính trị trong việc cho đăng một bài viết của đồng chí Hồ Nam, trong đó đồng chí so sánh Đảng với một cái đầu con rắn bị tách khỏi thân mình, một luận điểm làm lỏng lẻo tổ chức, nên chúng tôi chống lại. Các bài viết của chúng tôi thường dài và khó hiểu, song nhìn chung, chúng tôi đã bảo vệ đường lối chính trị của các đồng chí. Tạp chí của chúng tôi được Đảng Cộng sản Xiêm tái bản và được các đồng chí ấy coi là tài liệu cơ bản để tuyên truyền cho Đảng. Mỗi dịp có ngày kỷ niệm đỏ về tranh đấu quốc tế, ở trong nước chúng tôi xuất bản những tài liệu đặc biệt. Ban Trung ương sắp cho xuất bản hai tờ bán nguyệt san: Tạp chí Cộng sản và báo Cờ vô sản. Qua hai đường dây, chúng tôi nhận được từ Pari những tài liệu sau đây bằng tiếng Việt: Chương trình hành động của Đảng Cộng sản và của Thanh niên đoàn của công hội nông nghiệp, tuyên ngôn cộng sản, bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản và các nghị quyết các kỳ họp Đông phương Bộ của Quốc tế Cộng sản. Hiện tại, ở Nam Kỳ, các đồng chí có thể mua tất cả các báo, tạp chí, sách cộng sản của Pháp, điều đó có ảnh hưởng lớn đối với công tác tuyên truyền cổ động của Ban Trung ương. Ban Chỉ huy chúng tôi cũng có những tài liệu cơ bản bằng tiếng Nga, Anh và Tàu, do đó trong tương lai sắp tới chúng tôi có thể tổ chức một trường học cộng sản khoảng ba, bốn tháng để đào tạo cán bộ cấp tỉnh và huyện cho Đảng. Những tài liệu do Hồ Nam viết ra đều đầy rẫy những luận điểm cơ hội chủ nghĩa, làm biến dạng những nguyên lý lêninnít về Quốc tế Cộng sản. Ban Trung ương vừa được bầu ra sẽ đảm nhiệm chấn chỉnh các tài liệu ấy. Điều đáng mừng cần nhấn mạnh là tất cả các đồng chí dự Đại hội đều phê phán đường lối phản lêninnít của nhóm cơ hội chủ nghĩa của Hồ Nam và đều hoàn toàn tán thành đường lối chính trị do Ban Chỉ huy ở ngoài chủ trương. Hồ Nam, đại biểu tại Đại hội với tư cách tư vấn, đã tham gia soạn thảo các văn kiện trình bày ở Đại hội, đồng chí ấy đã phải nhận lỗi trước Ban chúng tôi và đã hứa sửa chữa trong hoạt động thực tiễn. Đồng chí ấy đã không được bầu vào Ban Trung ương vì thái độ phản lêninnít trước đây.
Phong trào quần chúng. Tại Trung Kỳ, không có phong trào quần chúng. Tại Cao Miên hiện đang có cuộc chiến tranh của người Mọi Phờnông (3-1935) chống bọn chiếm đóng Pháp, nhưng Đảng chúng tôi còn chưa thể có liên lạc gì với phong trào ấy. Tại Nam Kỳ, đã không thể tổ chức hai tuần lễ đỏ, từ 6-1 (ngày hợp nhất Đảng) đến 21-1 (ngày Lênin mất), theo chủ trương của Ban Chỉ huy ở ngoài, đã không rải truyền đơn và tổ chức một số cuộc mít tinh vào cuối tháng 1, đã làm cho quần chúng lao động rất ngạc nhiên và giảm tầm quan trọng của đợt vận động. Nhưng các đảng viên ở Nam Kỳ tham gia rất tích cực vào cuộc vận động bầu cử hội đồng thuộc địa. Đảng chúng tôi đã đưa ra 12 người tranh cử với một cương lĩnh tối thiểu, song nhiều ứng cử viên đã bị chính phủ gạt đi. Chúng tôi đã lên tiếng trong những cuộc mít tinh công cộng và luận chiến do các ứng cử viên tư sản tổ chức. Ban Chỉ huy ở ngoài còn chưa nhận được báo cáo chính xác về hoạt động của các đồng chí ở Nam Kỳ trong cuộc vận động bầu cử, nhưng chúng tôi đã biết là đồng chí Burốp7 (cựu sinh viên đại học) đã thu được hơn 750 phiếu. Ở Bắc Kỳ có ba cuộc biểu tình lớn của nông dân chống lại việc làm khổ sai ở Cao Bằng, Lạng Sơn vào tháng chạp vừa qua. Các phong trào này đều thu được thắng lợi: khi Chính phủ Pháp đưa binh lính tới biên giới Tàu để tấn công huyện Xôviết Tĩnh Tây (tỉnh Quảng Tây), các đồng chí chúng tôi ở Bắc Kỳ đã rải truyền đơn tại tỉnh lỵ Cao Bằng để phản đối sự can thiệp ấy của đế quốc, và Chính phủ Pháp đã buộc phải rút quân đội về.
Hoạt động của tổ chức đảng ở Bắc Kỳ rất đáng chú ý trong dịp kỷ niệm Công xã Quảng Châu. Hơn 200 người đã bị bắt trong dịp hai tuần lễ đỏ, truyền đơn, biểu ngữ, tờ bướm được rải khắp nơi, sau những cuộc mít tinh lớn ở Cao Bằng và Lạng Sơn, gần 300 người đã bị bắt. Mặc dầu có sự hoạt động như vậy, nhưng việc phổ biến về tầm quan trọng và sự ủng hộ các đại hội của Đảng và của Quốc tế Cộng sản vẫn còn yếu, vì những việc do Ban Chỉ huy ở ngoài đề ra nói chung không được thực hiện. Các đồng chí ở Lạng Sơn (Bắc Kỳ) đã tập hợp hơn 10.000 người địa phương để phân phát truyền đơn cộng sản, gây ảnh hưởng lớn trong nhân dân lao động. Tại Lào, các đồng chí đã tiến hành công tác quần chúng rất tốt. Truyền đơn, tờ bướm, biểu ngữ được rải dồn dập trong dịp những ngày kỷ niệm Xôviết Nghệ An (12-9 và Cách mạng Tháng Mười, Công xã Quảng Châu và hai tuần lễ đỏ. Điều cần nhấn mạnh là các đồng chí đã tổ chức các cuộc mít tinh chống khủng bố trắng ở Xiêm, tổ chức hai tuần lễ đặc biệt tranh đấu chống khủng bố trắng ở Lào. Thanh niên Cộng sản Lào đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống việc bắt giam một thanh niên cộng sản và họ đã đánh một tên khiêu khích và phá nhà tên này.
Ban Chỉ huy ở ngoài. Đại hội đã có một nghị quyết về những thiếu sót của hoạt động thực tiễn của Ban Chỉ huy và hoàn toàn nhất trí với đường lối chính trị chung của Ban. Đại hội Đảng đã gửi tới các đồng chí một bản đề nghị:
a) Tổ chức một phân bộ của Đông phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở nam Thái Bình Dương để lãnh đạo ba Đảng Cộng sản ở Đông Dương, Xiêm và Mã Lai.
b) Thủ tiêu Ban Chỉ huy ở ngoài với yêu cầu khẩn thiết đưa một phần các đồng chí trong Ban Chỉ huy về làm việc trong xứ. Trong khi chờ thành lập một phân bộ của Đông phương Bộ của các đồng chí, Đại hội của chúng tôi đã có một nghị quyết về những nhiệm vụ của Ban Chỉ huy và về những mối quan hệ với Ban Trung ương, về quan điểm chính trị chung và dưới sự lãnh đạo của Ban Chỉ huy ở ngoài. Ngoài ra Đại hội đã quyết định là trong trường hợp Ban Chỉ huy ở ngoài bị giải tán, các thành viên của Ban tất nhiên sẽ được chuyển sang qua Ban Trung ương của Đảng. Ban Trung ương Đảng Cộng sản Xiêm cũng yêu cầu chúng tôi chuyển tới các đồng chí đề nghị thành lập phân bộ của Đông phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở nam Thái Bình Dương.
Những vấn đề khác:
1. Nam8 đã tới Sài Gòn từ sáu tháng nay, có viết thư cho chúng tôi biết là bị cảnh sát kèm chặt. Anh ta có sai lầm là đã về sống hợp pháp ở gia đình. Jacques9 và Stone10 đều chưa tìm thấy.
2. Min đã phản bội chúng tôi, nó đã nói hết với cảnh sát mật; nó không còn ở với mật thám, có nghĩa là hắn đã có những ân hận. Hắn không đáng tin. Hắn đã bỏ mất các máy móc kỹ thuật trị giá hơn 200 đôla.
3. Nguyễn Văn Trâm tức Nguyễn Văn Trọng trước làm ở bộ phận liên lạc, khi chúng tôi đi vắng, đã phá tủ có hai lần khoá và ăn cắp 1.500 đôla Thượng Hải và Hồng Kông (khoảng 600 đôla Mỹ). Sau khi hắn trốn, hắn còn gửi cho chúng tôi một lá thư khiêu khích, trách chúng tôi không gửi hắn đi Mátxcơva. Có một tên mật thám tên là Nguyễn Văn Trọng, không rõ có phải chính nó là tên ăn cắp.
4. Tại sở mật thám, có một quyển ảnh (kèm theo là tiểu sử và đặc điểm) về những người cách mạng mà cảnh sát chưa bắt được. Ở trang đầu quyển ảnh, có tên của những người cộng sản đáng sợ: Lítvinốp, Min (đã phản bội), Xinhitrơkin, Hồ Nam, Svan và một đồng chí của Bắc Kỳ.
5. Hãy kiểm tra những thợ máy nói tiếng Pháp ở Quốc tế Cộng sản, tổ chức liên lạc của Quốc tế tại Pháp… Cơ quan thông tấn tư sản cũng đưa tin là một đại biểu Quốc tế Cộng sản đã không thể tới Xiêm.
6. Đồng chí Hồ Nam đã nói rằng những tin tức mà đồng chí ấy nói với các đồng chí về một tên mật thám Đông Dương là chỉ nói về tên khiêu khích Barô11, chứ không phải Lêô12 (mà các đồng chí đã giữ lại). Nếu các đồng chí có những tin tức chính xác từ Pháp về Lêô thì anh ta là một tên khiêu khích. Còn nếu các đồng chí chỉ có những tin tức do Hồ Nam cung cấp (do các đồng chí Vayăng Cutuyariê13 và Gabrien Peri14 chuyển cho), thì trong trường hợp này Lêô sẽ không phải là một tên khiêu khích, mà chỉ là một người vô tội. Vậy cần kiểm tra lại các tin tức của các đồng chí. Hãy thả Lêô ra, nếu anh ta vô tội và hãy gửi vào một trường học hoặc một xưởng máy.
7. Hãy điều Lumierơ15, Muni16, Vécnhe17, và Pala18 về gấp, Đảng cần cán bộ, Đình Thanh đã có thể gặp chúng tôi ngoài phố, do một sự may mắn, nếu không thì đồng chí ấy không thể tìm ra chúng tôi.
8. Đồng chí Lin được Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Trung ương của Đảng chỉ định là đại diện của Đảng ở Quốc tế Cộng sản.
9. Đại hội đã chuẩn y việc chỉ định các đồng chí Lítvinốp, Bà Vai19 và Cao Bằng20 là đại biểu của Đảng đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản chúng tôi sẽ cử thêm ba đại biểu khác21.
10. Ở Xiêm và Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc tranh đấu công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết. Hai Đảng Cộng sản Xiêm và Đông Dương đã viết một quyển sách chống những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua.
BAN CHỈ HUY Ở NGOÀI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
– Tài liệu tiếng Pháp, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
– Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đảng toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr.190-204.
_________
1. Đúng ra là ngày 20-12-1934 (B.T).
2. Lítvinốp: Lê Hồng Phong (B.T).
3. Đình Thanh: Đinh Tân, Trần Văn Diệm, học Trường đại học Phương Đông (B.T).
4. Semi công nhân: bán công nhân (B.T).
5. Svan: Nguyễn Văn Dựt, học Trường đại học Phương Đông 1931 – 1933 (B.T).
6. Faifo: Hội An, Quảng Nam (B.T).
7. Burốp: Dương Bạch Mai, học Trường đại học Phương Đông năm 1929 – 1930 (B.T).
8. Nam: Trần Văn Minh, quê ở Trà Vinh, học Trường đại học Phương Đông năm 1932 (B.T).
9. Jacques: Nguyễn Văn Tu, quê ở Bà Điểm, Gia Định, học Trường đại học Phương Đông 1929 – 1933 (B.T).
10. Stone: Nguyễn Văn Khích, quê ở Sa Đéc, học Trường đại học Phương Đông 1931 – 1934 (B.T).
11. Barô: Trần Văn Đức, học Trường đại học Phương Đông 1932-1934 (B.T).
12. Lêô: Chu Đức Tu, Đặng Đình Xích, Chúc, học Trường đại học Phương Đông 1932 – 1934. Do Quốc tế Cộng sản nghi là phần tử khiêu khích nên đã bị bắt và giam ở phía bắc Liên Xô, được thả vào năm 1946; đến năm 1955 được minh oan. Năm 1998 sống ở thành phố Ukhơta (Cộng hoà Liên bang Nga). A.A.Xôcôlốp: Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Mátxcơva, 1998, tr.136).
13,14. Là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp (B.T).
15. Lumierơ: Nguyễn Hữu Đương, Vũ Lạng Sơn, quê Hà Nội, học Trường đại học Phương Đông năm 1933 (B.T).
16. Muni: Hoàng Duy Cư, học Trường đại học Phương Đông từ năm 1932 (B.T).
17. Vécnhe: Trần Duy Minh, quê Hà Nam, học Trường đại học Phương Đông năm 1932 – 1934 (B.T).
18. Pala: Nguyễn Văn Phong, quê Bắc Ninh, học Trường đại học Phương Đông năm 1931 – 1933 (B.T).
19. Bà Vai: Nguyễn Thị Minh Khai (B.T).
20. Cao Bằng: Hoàng Văn Nọn, Tú Hưu, bí danh tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản là Văn Tân, học Trường đại học Phương Đông (B.T).”